Vào thế kỷ 19, Tiến sĩ S. Ramon Y Cajal (Tây Ban Nha) đã tiến hành một nghiên cứu chi tiết về cấu trúc của hệ thần kinh và đặt nền tảng của sinh học thần kinh cho đến ngày nay, ông được nhận giải thưởng Nobel cho chương trình nghiên cứu của mình. Kể từ khi ông kết luận rằng "hệ thống thần kinh trung ương trưởng thành sẽ không bao giờ tái tạo nếu bị tổn thương", người ta đã nghĩ rằng các tế bào thần kinh của hệ thống thần kinh trung ương không sinh sôi, phát triển, tái sinh sau khi trưởng thành. Nhưng trong nghiên cứu ông cũng đề cập rằng: "Nếu bất cứ điều gì có thể thay đổi số phận khủng khiếp này, thì đó không phải là gì ngoài khoa học trong tương lai."
Năm 1992, Tiến sĩ Reynold và Tiến sĩ Weiss đã chứng minh rằng có những tế bào thần kinh gốc có thể phát triển thành nhiều loại tế bào thần kinh trong não, như tế bào thần kinh và tế bào hình sao, vv. Nghiên cứu của họ đã mở ra một kỉ nguyên mới cho ngành nghiên cứu tế bào gốc.
Các loại tế bào gốc chính bao gồm : Tế bào gốc phôi ES, Tế bào gốc vạn năng cảm ứng iPS và Tế bào gốc trung mô MSC. Không có tế bào nào là hoàn hảo và mỗi loại đều có điểm mạnh và điểm yếu. Mặc dù các tế bào ES có tính vạn năng (về mặt lý thuyết, chúng có thể phân hóa thành bất kỳ tế bào nào),nhưng tế bào này có khả năng có trở ngại về vấn đề đạo đức về việc phá hủy các tế bào có thể được coi là sự khởi đầu của sự sống, phôi thai.. iPS là một thay thế hoàn hảo có thể giải quyết vấn đề đạo đức này và tạo ra các tế bào giống ES từ chính bệnh nhân, nhưng vấn đề về rủi ro biến đổi thành tế bào ung thư vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặt khác, các tế bào MSC không có vấn đề về đạo đức, nhưng có nhược điểm là từng loại tế bào MSC chỉ có khả năng phân hóa thành một số loại tế bào nhất định. Vì thế cần sử dụng hợp lý loại tế bào gốc theo từng loại điều trị. Các đối tác của MeditourJapan chủ yếu sử dụng Tế bào gốc trung mô MSC trong điều trị.
Tế bào gốc phôi (ES) | Tế bào gốc vạn năng cảm ứng (iPS) | Tế bào gốc trung mô (MSC) | |
---|---|---|---|
Ưu điểm |
|
|
|
Nhược điểm |
|
|
|
Trong một nghiên cứu về việc tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô tự thân có nguồn gốc từ tủy xương cho 12 bệnh nhân nhồi máu não, nghiên cứu cho thấy thể tích vùng não tổn thương được cải thiện (nhỏ lại) và 7 trong số 12 người được điều trị thì thang điểm NIHSS (điểm đánh giá đột quỵ: điểm càng cao thì mức độ tổn hại càng lớn) đã được cải thiện. Trong thời gian theo dõi tiếp theo, không có biến chứng nghiêm trọng như chảy máu, tắc mạch phổi, hoặc khối u, hiệu quả và an toàn của phương pháp đã được xác nhận. Đặc biệt có trường hợp bệnh nhân đã nhận được điều trị bằng phương pháp tế bào gốc 133 ngày sau khi bị nhồi máu não cũng giảm thể tích vùng não tổn thương và cải thiện rõ rệt về NIHSS từ 8 xuống 0. Điều này cho thấy những tác động hiệu quả đáng kể có thể đạt được ngay cả khi ca bệnh vào giai đoạn mãn tính.
Các kết quả của việc tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô tự thân đã được kiểm chứng cho thấy có hiệu quả điều trị ở các ca bệnh, bao gồm xuất huyết não, chấn thương tủy sống, cải thiện xơ cứng động mạch, mất trí nhớ (Bệnh Alzheimer ), suy tim, suy thận, chống lão hóa, suy gan.
Ngoài ra nghiên cức còn cho thấy thời điểm tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô tự thân càng sớm, số lượng tế bào được tiêm càng nhiều thì độ cải thiện thể tích vùng não tổn thương càng lớn, độ phục hồi các chức năng thể chất càng cao.
Tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô có nguồn gốc từ tủy xương cho chuột bị tổn thương tủy sống kì mãn tính cho hiệu quả giảm thể tích tổn thương tủy sống, cải thiện chức năng vận động và cải thiện môi trường huyết dịch tủy sống.
* Phần bị tổn thương tủy sống đã được tái tạo và thể tích tủy sống đã tăng lên (Hình tổn thương tủy sống1 , hình trên A → hình trên B )
* Chấn thương tủy sống đã được phục hồi và sự rò rỉ dung dịch nhuộm đã được cải thiện (Hình tổn thương tủy sống 1 ,hình dưới A → hình dưới B)
Ngoài ra, sau khi tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô có nguồn gốc từ tủy xương, số lượng mạch máu mới (tế bào nội mô mạch máu) cần thiết để khôi phục chức năng vận động trong vùng bị tổn thương đã tăng đáng kể.
* So với hình tổn thương tủy sống 2 A (trước)→ C (sau), hình tổn thương tủy sống 2 B (trước) → D (sau). Các tế bào gốc ở vùng bị tổn thương tăng lên khi tiêm tĩnh mạch tế bào gốc trung mô có nguồn gốc từ tủy xương (tế bào gốc: màu xanh lá cây)
Đối với các ca bệnh tổn thương tế bào thần kinh dẫn đến tổn thương chức năng vận động (tai biến mạch máu não, tổn thương thần kinh cột sống, vv) thì cần phải phối hợp giữa trị liệu bằng tế bào gốc và luyện tập phục hồi chức năng để đạt hiệu quả tối đa trong điều trị. MeditourJapan và các cơ quan y tế đối tác cũng cung cấp dịch vụ luyện tập phục hồi chức năng theo yêu cầu của quí khách với các trang thiết bị tối tân và đội ngũ y bác sĩ tận tình, giàu kinh nghiệm trong điều trị.
Những năm gần đây, trong liệu pháp tế bào gốc, không chỉ hiệu quả của chính các tế bào gốc mà cả các Protein có vai trò là yếu tố tăng trưởng (growth factor) và các Protein có vai trò tác động đến các tế bào xung quanh (cytokine) được tiết ra trong quá trình nuôi dưỡng, phân bào tế bào gốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo các bộ phận tổn thương đã được báo cáo.
Các nghiên cứu và kết quả lâm sàng đã chỉ ra các growth factor và các cytokine được tiết ra trong quá trình nuôi dưỡng, phân bào tế bào gốc tác động đến những tế bào gốc xung quanh, kích thích và điều tiết các tế bào gốc lân cận tập trung đến vùng tổn thương và tạo ra hiệu quả kích thích tế bào gốc tái tạo và phục hồi vùng tổn thương.
Dựa trên công năng và hiệu quả của các growth factor và các cytokine được tiết ra trong quá trình nuôi dưỡng, phân bào tế bào gốc,liệu pháp chữa trị bằng cách truyền các growth factor và các cytokine từ tế bào gốc cho người bệnh là liệu pháp hiệu quả với chi phí thấp hơn so với liệu pháp điều trị trực tiếp bằng tế bào gốc, phù hợp với các bệnh nhân vẫn còn nhiều tế bào gốc trong cơ thể..
So với liệu pháp điều trị trực tiếp bằng tế bào gốc phải qua nhiều qui trình phức tạp : [trích xuất tế bào gốc từ bịnh nhân →nuôi dưỡng gia tăng số lượng tế bào gốc → truyền tế bào gốc cho bịnh nhân → lưu trữ tế bào gốc cho các lần điều trị sau, vv] và đòi hỏi chi phí cao, thì liệu pháp chữa trị bằng cách truyền các growth factor và các cytokine từ tế bào gốc có qui trình tương đối đơn giản hơn. Vì không cần thiết phải sử dụng chính tế bào gốc của bệnh nhân trong qui trình tạo ra các growth factor và các cytokine từ tế bào gốc, mà có thể sử dụng tế bào gốc từ người khác (ví dụ như tế bào gốc trích xuất từ dây rốn, tủy răng, mỡ của người) nên quá trình điều chế có thể tiến hành tập trung, cao độ hóa trong các trung tâm nghiên cứu chuyên môn.
Đối với bệnh nhân lớn tuổi (số lượng tế bào gốc có sẵn trong cơ thể ít đi) thì cần điều trị bằng liệu pháp truyền tế bào gốc tự thân trực tiếp và phối hợp với liệu pháp chữa trị bằng cách truyền các growth factor và các cytokine từ tế bào gốc.
Trong nghiên cứu so sánh các cytokine tiết ra từ các loại tế bào gốc khác nhau: dây rốn, tủy xương, mỡ thì tế bào gốc từ dây rốn tiết ra nhiều về số lượng lẫn chủng loại các growth factor và cytokine có chức năng tái tạo mạch máu và các tế bào thần kinh hơn các loại tế bào gốc khác.
Các cơ quan y tế hợp tác với MeditourJapan chỉ sử dụng growth factor và cytokine có nguồn gốc từ dây rốn để mang đến hiệu quả tối đa trong chữa trị.
1. Sự khác nhau về thành phần growth factor và cytokine giữa các loại tế bào gốc.
Sự khác nhau về hiệu quả bảo vệ tế bào thần kinh của growth factor và cytokine giữa các loại tế bào gốc.
Trong thí nghiệm kiểm chứng về hiệu quả giữa growth factor và cytokine có nguồn gốc từ tế bào gốc từ dây rốn và tế bào gốc từ tủy xương đối với tình trạng oxy và đường nồng độ thấp (tình trạng não bị thiếu dinh dưỡng do tổn thương mạch máu). Kết quả thí nghiệm cho thấy số lượng tế bào thần kinh được phục hồi trong liệu pháp sử dụng growth factor, cytokine có nguồn gốc từ tế bào gốc từ dây rốn nhiều áp đảo phương pháp sử dụng growth factor, cytokine có nguồn gốc từ tế bào gốc từ tủy xương (hình trên bên phải). Hình trên cho thấy các protein GFAC( màu xanh lá cây ), MAP2( màu đỏ ) xuất hiện nhiều nhất ở thí nghiệm OGD + WJ-MSC chứng tỏ WJ-MSC bảo vệ và phục hồi nhiều tế bào thần kinh đã bị tổn thương nhất.
Sự khác nhau về hiệu quả tập trung tế bào gốc đến vùng tổn thương và điều tiết tết bào gốc tái tạo, phục hồi vùng tổn thương của growth factor và cytokine giữa các loại tế bào gốc.
Hiệu quả của dung dịch chứa growth factor và cytokine từ tế bào gốc từ dây rốn khi truyền qua nhỏ mũi.
Sau khi được trị liệu bằng phương pháp nhỏ dung dịch chứa growth factor và cytokine từ tế bào gốc từ dây rốn qua mũi, sau 2 tuần chức năng của khả năng vận động và tri giác của hệ thần kinh đã được cải thiện rõ qua đánh giá mNSS, và khả năng di chuyển (bước đi) cũng cải thiện vượt bậc thể hiện qua Foot fault test.
Tế bào gốc và dung dịch cytokine chiết xuất từ tế bào gốc có công năng phục hồi những tổn thương thần kinh như: tổn thương não, tổn thương mạch máu não, tổn thương hệ thống dây thần kinh ở cột sống, giúp người bệnh phục hồi các chức năng vận động do các bệnh nan y như chấn thương cột sống, tai biến mạch máu não mang đến. Bên cạnh đó phương pháp chữa trị bằng tế bào gốc cũng được ứng dụng trong chữa trị các bệnh như :